Admin Forum VIP
Tổng số bài gửi : 401 Points : 6028 Thanks : 52 Join date : 02/05/2010
| Tiêu đề: Chế độ thai sản áp dụng với lao động nữ khi sinh con Wed Dec 07, 2011 8:58 am | |
| Phân tích chế độ thai sản áp dụng với lao động nữ khi sinh con theo pháp luật Việt Nam: Trong lực lượng lao động xã hội, nữ giới chiếm một tỉ lệ không nhỏ. Ngoài việc tham gia các công tác ngoài xã hội, làm việc, người phụ nữ còn phải đảm nhiệm những công việc trong gia đình và đặc biệt đó là thiên chức làm mẹ. Hầu hết các phụ nữ đều phải trải qua thời kỳ mang thai và nuôi con nhỏ. Việc mang thai, sinh con làm cho sức khỏe của phụ nữ bị suy giảm, thu nhập bị gián đoạn ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống gia đình và việc nuôi con nhỏ cũng phải mất thêm chi phí. Như vậy đối với người công nhân thì cuộc sống của họ và gia đình càng trở lên khó khăn hơn. Biết được điều đó nên trên thế giới nói chung và nước ta nói riêng đã đưa ra các chính sách nhằm giúp đỡ phần nào cho các bà mẹ và trẻ sơ sinh.Chế độ bảo hiểm thai sản là một trong các chế độ Bảo hiểm xã hội nhằm bảo đảm sức khỏe và thu nhập của lao động nữ khi mang thai, sinh con, khám thai… và kể cả lao động nam khi nuôi con dưới 4 tháng tuổi, khi thực hiện các biện pháp tránh thai… Ở đây ta chỉ phân tích chế độ thai sản áp dụng đối với lao động nữ khi sinh con. I. Đối tượng áp dụng Theo Điều 27 Luật Bảo hiểm xã hội (sau đây xin được viết tắt là “Luật BHXH”) thì đối tượng áp dụng chế độ thai sản là lao động nữ quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 2 của Luật BHXH. cụ thể các điểm như sau:a) Lao động nữ làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên;b) Cán bộ, công chức, viên chức;d) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân. 1. Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.3. Người lao động là công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang.b) Hợp đồng với doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu, công trình ở nước ngoài.II.Theo Điều 28 Luật BHXH thì điều kiện để người lao động được hưởng chế độ thai sản là:
“1. Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Lao động nữ mang thai;
b) Lao động nữ sinh con;
c) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới bốn tháng tuổi;
d) Người lao động đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản.
Căn cứ vào điểm 1 phần II mục B của Thông tư 03/2007/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thêm:
Trường hợp sinh con từ ngày 15 trở đi của tháng, thì tháng sinh con được tính vào thời gian 12 tháng trước khi sinh con.
Ví dụ 2: Chị B nghỉ việc vào tháng 8/2007 và sinh con vào ngày 16/12/2007, khoảng thời gian 12 tháng trước khi sinh con được tính từ tháng 01/2007 đến tháng 12/2007, nếu trong khoảng thời gian này chị B đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng trở lên thì chị B được hưởng chế độ thai sản theo quy định.
1. Lao động nữ sinh con đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con thì sẽ được hưởng chế độ thai sản khi sinh con.
Thời gian hưởng chế độ thai sản Điều 29 Luật BHXH quy định:
“Trong thời gian mang thai, lao động nữ được nghỉ việc để đi khám thai năm lần, mỗi lần một ngày; trường hợp ở xa cơ sở y tế hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ hai ngày cho mỗi lần khám thai.
Có thể nói, Thời gian nghi khi sinh con được pháp luật quy định không giống nhau, tùy thuộc vào công việc cũng như môi trường làm việc của người lao động nữ.
Điều 30 Luật BHXH quy định:
“Khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu thì lao động nữ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản mười ngày nếu thai dưới một tháng; hai mươi ngày nếu thai từ một tháng đến dưới ba tháng; bốn mươi ngày nếu thai từ ba tháng đến dưới sáu tháng; năm mươi ngày nếu thai từ sáu tháng trở lên.
3. Thời gian hưởng chế độ khi sinh con
“1. Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định sau đây:
b) Năm tháng, nếu làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành; làm việc theo chế độ ba ca; làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên hoặc là nữ quân nhân, nữ công an nhân dân;
d) Trường hợp sinh đôi trở lên, ngoài thời gian nghỉ việc quy định tại các điểm a, b và c ở trên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con được nghỉ thêm ba mươi ngày.
3. Trường hợp chỉ có cha hoặc mẹ tham gia bảo hiểm xã hội hoặc cả cha và mẹ đều tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ bốn tháng tuổi.
Các quy định trên đã thể hiện được sự ưu đãi của nhà nước đối với lao động nữ khi đang trong thời kỳ sinh con. Qua đó đã góp phần bù đắp và tái sản xuất sức lao động cho lao động nữ, giúp họ có thời gian ổn định cuộc sống và các điều kiện về thể chất, tinh thần để có thể tiếp tục làm việc một cách thuận lợi hơn. Quan trọng hơn hết là việc chăm sóc đứa trẻ sau sinh. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định cho lao động nữ được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản
Trợ cấp một lần khi sinh con
Theo Điều 34 Luật BHXH:
Trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết khi sinh con thì cha được trợ cấp một lần bằng hai tháng lương tối thiểu chung cho mỗi con.
V.Điều 35 Luật BHXH quy định
2. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ khi sinh con được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Thời gian này người lao động và người sử dụng lao động không phải đóng bảo hiểm xã hội.”
Mức hưởng chế độ thai sản khi nghỉ việc sinh con được tính theo công thức sau:
Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 37 Luật BHXH còn quy định mức hưởng đối với lao động nữ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản.
Tổ chức BHXH có trách nhiệm quyết toán trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ; trường hợp không quyết toán thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
VI.Được quy định tại Điều 36 Luật BHXH
a) Sau khi sinh con từ đủ sáu mươi ngày trở lên;
c) Phải báo trước và được người sử dụng lao động đồng ý.
óNhững bất cập của chế độ thai sản đối với lao động nữ khi sinh con:
Lao động nữ ngoài việc thực hiện nghĩa vụ lao động như nam giới, họ còn phải đảm nhận chức năng làm mẹ và chăm sóc gia đình. Đó là những vấn đề mang tính tự nhiên (lao động nữ có thời kỳ mang thai, sinh đẻ, nuôi con, kinh nguyệt hàng tháng, chăm sóc khi con nhỏ ốm đau…) hay mang tính xã hội (tư tưởng trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào tiềm thức con người từ hàng ngàn đời nay. Đặc biệt đối với các nước Á Đông…). Điều này gây ra sự bất bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ, chẳng hạn như: học vấn, việc làm, cơ hội thăng tiến, trách nhiệm nặng nề của người phụ nữ trong gia đình… Những đặc điểm của lao động nữ, đòi hỏi pháp luật phải có những quy định riêng giúp họ vừa thực hiện nghĩa vụ lao động, vừa đảm bảo chức năng làm mẹ và chăm sóc gia đình, tạo điều kiện cho lao động nữ phát triển tài năng. Mặc dù pháp luật đã có những quy định riêng cho lao động nữ như đã phân tích ở trên nhưng vẫn có những bất cập:
Thứ nhất, về thời gian hưởng chế độ khi sinh con xét ở khía cạnh bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em thì quy định về thời gian nghỉ thai sản 4 tháng là chưa hợp lý, cụ thể là ở Việt Nam vẫn chưa có những quy định đầy đủ về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật đảm bảo việc tổ chức nhà trẻ, hay bố trí địa điểm làm việc thuận tiện để lao động nữ có thể cho con bú bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và trong vòng 24 tháng tiếp theo… đặc biệt ở những doanh nghiệp hoặc những khu vực kinh tế sử dụng nhiều lao động nữ. Còn về phía người mẹ sau khi sinh Theo thống kê của Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em (Bộ Y tế) cho biết, ở nước ta chỉ có 1/10 bà mẹ (10%) nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu. Tỷ lệ này không mấy được cải thiện, năm 2006 là 16,9%, đến năm 2010 tỷ lệ này chỉ có 19,6%, tăng rất khiêm tốn. Vì vậy khi thời gian nghỉ thai sản kéo dài sẽ nâng cao tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ. Mặt khác, theo quy định, người mẹ chỉ được nghỉ 4 tháng, trong khi đó hệ thống nhà trẻ chính quy chỉ nhận trẻ từ 18 tháng tuổi trở lên. Vì vậy, rất nhiều gia đình cán bộ công nhân nghèo phải chấp nhận gửi con ở nhà trẻ tư nhân với mức phí cao, nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro về chất lượng, các quy định về chế độ nghỉ thai sản hiện hành ở nước ta chưa có quy định rõ ràng và chưa tính đến việc lao động nữ cần phải nghỉ một thời gian nhất định trước khi sinh để đảm bảo sức khỏe sinh sản cho bà mẹ và trẻ em. Trong khi đó, các nước trong khu vực đã có quy định rõ ràng, điển hình như Philippines quy định cụ thể thời gian nghỉ thai sản trước khi sinh đối với lao động là 2 tuần.
Thêm nữa, ở khoản 2 Điều 114 Bộ luật lao động còn có quy định người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận nghỉ thêm thời gian không hưởng lương khi đã nghỉ hết thời gian quy định tại khoản 1 nhưng trong thực tiễn dường như không được áp dụng vì người lao đông sợ bị mất việc, bị chấm dứt hợp đồng.
Thứ hai, khi quy định người lao động nhận nuôi con nuôi sơ sinh dưới 4 tháng tuổi của LBHXH đã đảm bảo được quyền làm mẹ của lao động nữ khi sinh con cũng như nhận con nuôi được hưởng chế độ thai sản. Tuy nhiên, chính sách thai sản quy định tại khoản 3 Điều 31, Điều 32, Điều 34 lại chưa tính đến việc thực hiện chính sách bình đẳng giới, nghĩa là trong trường hợp khi người cha (độc thân) nhận nuôi con nuôi được hưởng chế độ thai sản cũng sẽ được hưởng giống chế độ thai sản của người mẹ (độc thân) khi nhận nuôi con nuôi, nhưng cũng chính quy định này đã tạo nên sự bất bình đẳng giới đối với trường hợp lao động nam không được hưởng chế độ thai sản khi người vợ của họ sinh con (trừ trường hợp thừa kế quyền khi người mẹ chết theo quy định tại khoản 3 Điều 31). Mặc dù, chức năng sinh con là thiên chức của người phụ nữ nhưng nếu chỉ quy định như pháp luật hiện hành, nữ giới mới có quyền được hưởng chế độ thai sản khi sinh con thì vô hình dung nhà làm luật đã tạo nên cách suy nghĩ cho rằng việc sinh con, nuôi con nhỏ chỉ là trách nhiệm của người phụ nữ và người phụ nữ đã phải mất thời gian dài khi sinh con, nuôi con . Điều này đồng nghĩa với việc mọi gánh nặng nuôi dạy con cái dồn hết lên vai người phụ nữ, như vậy sẽ phần nào ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống cũng như năng suất lao động của phụ nữ trong thời kỳ nuôi con nhỏ và vì vậy đã làm tăng sự bất bình đẳng giới vốn đã hình thành từ lâu trong xã hội. So sánh với các nước phát triển triển trên thế giới như Na Uy, Thủy Điển…đã khuyến khích vai trò của người làm cha.Ví dụ điển hình như “Na Uy là nước có chỉ số GDI đứng đầu thế giới đã quy định khi sinh nở người mẹ được nghỉ 52 tuần hưởng 60% lương hoặc nghỉ 42 tuần hưởng 100% lương trong thời gian này, người cha được nghỉ 4 tuần tùy theo chế độ ”(theo tạp chí luật học số 9/2011). Còn ở Việt Nam, dựa vào tình hình phát triển cũng như điều kiện Kinh Tế, Xã Hội ta vẫn chưa có quy định về vấn đề này, tuy nhiên thiết nghĩ cần có sự nghiên cứu để quy định thêm trường hợp người cha được hưởng chế độ thai sản khi người vợ của họ sinh con ở mức phù hợp, trong thời điểm thích hợp.
Thứ ba, về điều kiện hưởng chế độ thai sản theo quy định tại Điều 14 nghị định 152 họ phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con thì họ mới được hưởng chế độ thai sản theo quy định tại Điều 34 và khoản 1 Điều 35 khi sinh con tức là hưởng trợ cấp một lần khi sinh con và hưởng chế độ thai sản. Quy định về điều kiện hưởng như vậy có vẻ là bất hợp lý; trong thực tế có trường hợp lao động nữ làm việc theo hợp đồng lao động và đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 6 tháng thì nghỉ sinh nghĩa là họ không tiếp tục làm việc, không đóng bảo hiểm xã hội và như vậy họ sẽ không đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản trong bảo hiểm xã hội. Với quy định thế này sẽ gây thiệt thòi cho người lao động nữ, không đảm bảo được vấn đề tài chính cho họ khi sinh con, mục đích của họ khi tham gia bảo hiểm xã hội để bù đắp phần thu nhập khi họ không đi làm, sau khi sinh con có thể trang trải các khoản chi phí phát sinh.
Thứ tư, tại khoản 3 Điều 115 BLLĐ quy định “Trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc mà vẫn hưởng đủ lương”. Đó là điều rất cần thiết cho lao động nữ để họ có thời gian gần gũi, chăm sóc con nhỏ. Tuy nhiên, trong thực tế, người sử dụng lao động thường không thực hiện quy định này, hiện nay phần lớn các cơ sở sử dụng lao động nữ khoán lương theo sản phẩm nên việc lao động nữ nghỉ việc cho con bú đều không được thể hiện trong tiền lương. Mặc dù theo pháp luật, lẽ ra lao động nữ phải được hưởng. Vì thế lao động nữ vẫn phải làm đủ số giờ quy định, nhưng không được hưởng tiền lương của 1 giờ làm việc đáng lẽ họ có quyền được hưởng. Vi phạm này từ phía người sử dụng lao động có thể do khó khăn trong việc tổ chức sản xuất, chẳng hạn lao động nữ đó làm việc trong dây chuyền, nếu họ nghỉ trước 1 giờ thì sẽ ảnh hưởng đến những lao động khác… và về phía lao động nữ do sức ép về việc làm họ rất e ngại đề nghị người sử dụng lao động đảm bảo ưu đãi đó, vì vậy trong thực tế quy định này ít được thực hiện. Mặt khác, đối với DN gần khu dân cư, thì việc đi lại giữa nhà và nơi làm việc rất đơn giản. Nhưng hiện nay, phần lớn DN nằm trong khu chế xuất, khu công nghiệp, công nhân có xe đưa, đón đi làm đúng giờ. Do đó, lao động nữ không thể về giữa giờ, hoặc về sớm 60 phút cho con bú. Pháp luật hiện hành không quy định trường hợp này, vì thế nếu người sử dụng lao động vi phạm thì cũng chẳng có chế tài nào xử phạt họ. Do đó, khoản chi phí này không nên tính vào chi phí sản xuất do người sử dụng lao động trả (vì thực tế đa số người sử dụng lao động không thực hiện) mà quỹ bảo hiểm xã hội phải thanh toán khoản tiền này, có như vậy mới đảm bảo được quyền lợi cho lao động nữ trong thời gian nuôi con nhỏ.
bên cạnh đó vấn đề này không chỉ là riêng của mỗi gia đình, mỗi cá nhân người phụ nữ mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội, lao động nữ là lao động đặc biệt tái sản xuất sức lao động cho xã hội vì vậy Nhà Nước cần có chính sách hỗ trợ Doanh Nghiệp để thực hiện trách nhiệm này tránh để trách nhiệm đặt quá nặng lên vai Doanh Nghiệp dẫn đến những quy định pháp luật dành cho lao động nữ vô tình trở thành rào cản lợi ích của chính họ. Mặc dù chế độ thai sản cho người phụ nữ đã được thừa nhận trong nhiều Điều luật nhưng cần có sự hỗ trợ đóng góp tích cực từ nhiều phía liên quan, góp phần giúp pháp luật được thực thi trong xã hội.
Được sửa bởi Admin ngày Tue Dec 13, 2011 5:37 pm; sửa lần 1. | |
|
uyen kute215 Forum Fan
Tổng số bài gửi : 15 Points : 4644 Thanks : 0 Join date : 26/08/2011 Age : 32 Đến từ : lam dong
| Tiêu đề: Re: Chế độ thai sản áp dụng với lao động nữ khi sinh con Wed Dec 07, 2011 9:39 am | |
| lop truong oi lop truong dang cac de tai thay cho len forum cho cac ban tham khao lun nha chu cac ban khong co du cac de tai.cam on henk. | |
|
Admin Forum VIP
Tổng số bài gửi : 401 Points : 6028 Thanks : 52 Join date : 02/05/2010
| Tiêu đề: Re: Chế độ thai sản áp dụng với lao động nữ khi sinh con Wed Dec 07, 2011 3:59 pm | |
| Mấy đề tài khác Q có nói mấy nhóm trưởng gửi lên, mà sao chưa thấy ai gửi. | |
|