BÌNH MINHTừ sau ngày Bộ luật Tố tụng dân sự 2004
có hiệu lực, chuyện công nhận, cho thi hành bản án ly hôn của tòa án
nước ngoài tại Việt Nam đều gặp bế tắc.
Gần đây, ngành tòa án
đã nhận được khá nhiều đơn yêu cầu công nhận, cho thi hành bản án ly hôn
ở nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, các trường hợp này hiện đều đang
bị ách tắc bởi vướng quy định, thiếu hướng dẫn…Hơn ba năm kết hôn với một Việt kiều Mỹ, chị GNP ngụ
quận 10 (TP.HCM) luôn phải sống trong cảnh vò võ chờ đợi bởi người chồng
chủ yếu làm ăn ở Mỹ, lâu lâu mới bay về nước thăm chị một lần.
Bao giờ mới thành người độc thân?Xa mặt cách lòng, những chuyến bay về nước ít ỏi ấy
rồi cứ thưa thớt dần. Một ngày, chị P. nhận được hồ sơ thỏa thuận ly hôn
gửi về. Chị P. thuận tình ký tên để giải phóng cho đôi bên. Năm 2009,
Tòa Thượng thẩm bang California, hạt San Bernardino sau đó đã ra bản án
ghi nhận quyết định ly hôn của vợ chồng chị.
Sau đó, chị P. làm đơn gửi Bộ Tư pháp yêu cầu công
nhận bản án ly hôn trên có hiệu lực thi hành tại Việt Nam. Đơn của chị
cùng các tài liệu liên quan được chuyển về TAND TP.HCM. Xem xét, TAND TP
nhận định: Khoản 1 Điều 344 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định yêu cầu
công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa
nước ngoài chỉ được xem xét trong trường hợp cá nhân phải thi hành cư
trú, làm việc tại Việt Nam hoặc có tài sản liên quan đến việc thi hành
án tại Việt Nam vào thời điểm gửi đơn yêu cầu. Ở đây, người chồng đang
cư trú tại Mỹ nên chị P. chưa đủ điều kiện để yêu cầu tòa công nhận và
cho thi hành bản án. Vì vậy, tòa đã đình chỉ giải quyết yêu cầu của chị
P.
Để gỡ vướng cho chị P., cán bộ tòa hướng dẫn chị nộp
đơn tiến hành thủ tục ly hôn ở tòa án trong nước. Để mọi việc thuận lợi,
chị nên liên hệ với người chồng bên Mỹ để có sự thuận tình xác nhận.
Còn nếu chị đơn phương xin ly hôn thì sẽ phải chờ thủ tục ủy thác tư
pháp, vốn rất lâu và cũng rất khó suôn sẻ.
Chị P. làm theo hướng dẫn này nhưng không thể liên hệ
được với người chồng bên Mỹ để làm thủ tục thuận tình ly hôn. Chị mệt
mỏi vì “chồng không có” mà mình thì vẫn chưa được trở thành người độc
thân, không biết bao giờ mới có điều kiện để xây dựng một mái ấm mới hợp
pháp.
Bế tắc bởi vướng quy định, thiếu hướng dẫnTrước năm 2005, những trường hợp tương tự như chị P.
rất dễ giải quyết vì đương sự chỉ cần yêu cầu Sở Tư pháp ở địa phương
mình sinh sống ghi chú hộ tịch là đã ly hôn với người nước ngoài thì
đương nhiên được coi là người độc thân.
Tuy nhiên, từ sau ngày 1-1-2005 (ngày Bộ luật Tố tụng
dân sự 2004 có hiệu lực), chuyện công nhận, cho thi hành bản án ly hôn
của tòa án nước ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của ngành tòa án. Bắt
đầu từ đây, các trường hợp xin công nhận bản án ly hôn của tòa án nước
ngoài đã gặp bế tắc bởi hai lý do chủ yếu.
Lý do đầu tiên khá phổ biến: Trường hợp của đương sự
không đủ điều kiện luật định để tòa án Việt Nam công nhận theo Điều 344
Bộ luật Tố tụng dân sự (người hôn phối không cư trú, làm việc tại Việt
Nam, không có tài sản liên quan đến việc thi hành án tại Việt Nam vào
thời điểm đương sự gửi đơn yêu cầu).
Lý do thứ hai: Theo Điều 343 Bộ luật Tố tụng dân sự,
tòa án Việt Nam chỉ được xem xét công nhận, cho thi hành bản án của tòa
án nước ngoài trên cơ sở điều ước quốc tế hoặc nguyên tắc có đi có lại.
Rắc rối là đến nay, chưa có văn bản công bố danh mục các nước có tham
gia điều ước quốc tế hoặc ký kết hiệp định song phương với Việt Nam về
vấn đề này, cũng chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng nguyên tắc có đi có
lại để các thẩm phán vận dụng.
Trên thực tế, một số nước mà công dân Việt Nam có
nhiều quan hệ hôn nhân như Mỹ, Canada, Đức, Úc, Hàn Quốc… thì nước ta
lại chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự cũng như các hiệp định
khác có liên quan đến việc công nhận bản án, quyết định của nhau.
Gỡ chỗ này, vướng chỗ khác!Tại TP.HCM, để gỡ vướng cho các trường hợp chưa đủ
điều kiện như chị P., tháng 8-2010, Ủy ban Thẩm phán TAND TP.HCM đã có
Công văn 2332 hướng dẫn: Thẩm phán thụ lý yêu cầu công nhận bản án ly
hôn của tòa án nước ngoài không được đình chỉ giải quyết với lý do bên
phải thi hành án đang ở nước ngoài.
Ngỡ rằng hướng dẫn này sẽ tháo gỡ được ách tắc nhiều
năm qua để triển khai thực hiện công nhận bản án ly hôn nước ngoài.
Nhưng đến nay, TAND TP vẫn chưa thể công nhận được bản án nào do vướng
tiếp bất cập ở Điều 343 Bộ luật Tố tụng dân sự về chuyện tham gia điều
ước quốc tế, ký kết hiệp định song phương hay áp dụng nguyên tắc có đi
có lại.
Trên phạm vi cả nước, tháng 10-2010, Bộ Tư pháp có
Thông tư số 16 tạm thời hướng dẫn việc ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã
tiến hành ở nước ngoài. Tuy nhiên, việc ghi chú hộ tịch này có giới hạn
rất hẹp: Thứ nhất, chỉ ghi chú hộ tịch nếu bản án đó là của các nước đã
ký hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam về vấn đề này. Thứ hai, nếu
là bản án của các nước chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam
thì việc ghi chú hộ tịch do bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định (sau khi đã
tham khảo ý kiến của Bộ Ngoại giao) theo nguyên tắc có đi có lại.
___________________________________________________
Tháng 5-2009, TAND TP.HCM đã ra quyết
định đình chỉ giải quyết trường hợp ông LVN yêu cầu công nhận bản án của
Tòa án gia đình Wolfenbutter (Đức) cho ông được ly hôn với bà TTN.
Lý do TAND TP đình chỉ giải quyết cũng là do bà N. đang sinh sống tại Đức và không có tài sản ở Việt Nam.
Tháng 1-2010, TAND TP.HCM đã ra quyết định đình chỉ
giải quyết yêu cầu công nhận bản án ly hôn của tòa án nước ngoài của bà
DTNH với lý do người chồng đang cư trú ở nước ngoài, không có tài sản ở
Việt Nam nên trường hợp của bà H. không đủ điều kiện.
Trước đó, tháng 8-2008, Tòa án Tối cao British
Columbia (Canada) cho bà H. được ly hôn với ông DHT theo bản án số
E080672 (hai người không có con chung và tài sản chung). Tháng 9-2009,
bà H. làm đơn yêu cầu Bộ Tư pháp công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án này. Vụ việc của bà sau đó được chuyển về cho TAND TP.HCM thụ lý.
SOURCE: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM