TS. NGUYỄN HỒNG THAOĐể giải quyết cuộc tranh luận dai dẳng xung quanh danh nghĩa lịch sử, cách tốt nhất là nên tham khảo ý kiến bên thứ ba.
Người phương Tây đã từng nói về sự quy thuộc của
quần đảo Paracel vào An Nam. Các nhà truyền đạo Pháp trên tàu
Amphitrite trên đường sang TQ đã ghi trong một bài tiếng Pháp năm 1701:
“Paracel là một quần đảo thuộc Vương quốc An Nam. Đó là một bãi đá ngầm
khủng khiếp có đến hàng trăm dặm, rất nhiều lần đã xảy ra các tai nạn
đắm tàu ở đó” ([1]).
Jean-Louis Taberd ghi nhận:
“Pracel hoặc Paracels (Bãi cát vàng), mặc dù quần
đảo này không có gì ngoài các đá, bãi và độ sâu lớn hứa hẹn nhiều bất
tiện lợi hơn, Vua Gia Long đã nghĩ tới việc mở rộng lãnh thổ của ngài
bằng cách chiếm thêm vùng đất buồn bã này. Năm 1816, ngài đã tới đây
long trọng cắm cờ, chính thức chiếm hữu các đảo đá này, mà không một ai
tranh giành gì với ngài cả”([2]).
Về phần mình, J.B.Chaigneau, cố vấn của nhà vua An Nam, đã viết trong cuốn hồi ký về nước Cochinchine:
“Nước Cochinchine mà nhà vua bấy giờ đã lên ngôi
Hoàng đế gồm xứ Cochinchine và xứ Đông Kinh… một vài đảo có dân cư
không xa biển và quần đảo Paracel do những đảo nhỏ, ghềnh và đá không
có dân cư hợp thành. Chỉ tới năm 1816, Hoàng đế mới chiếm hữu quần đảo
này”([3]).
Dubois de Jancigny trong Thế giới, lịch sử và mô tả
các dân tộc Nhật, Đông Dương, Ceylan có viết: “Chúng tôi quan sát thấy
rằng từ ba mươi tư năm nay, quần đảo Paracel (người An Nam gọi là Cát
vàng), một ma hồn trận thật sự của các đảo nhỏ, các đá và các bãi cát
đầy ngờ vực của các nhà hàng hải và có thể được coi là hoang dã và vô
tích sự nhất trong số các điểm của quả địa cầu, đã được người An Nam
(Cochinchine) chiếm hữu. Chúng tôi không để ý liệu họ có tạo nên một
công trình nào trên đó không (nhằm mục đích, có thể, bảo vệ nghề cá);
nhưng chắc chắn rằng Vua Gia Long đã gắn thêm vòng hoa này vào vương
miện của người, bởi vì ngài đã thân chinh tới đó chiếm hữu, việc này
xảy ra vào năm 1816 khi ngài long trọng kéo cờ của An Nam lên đó”([4]).
Gutzlaff trong bài Địa lý Vương quốc Cochinchine
xuất bản năm 1849 tại London (Anh) cũng ghi Cát Vàng (để chỉ Paracel)
thuộc Cochinchine. Gutzlaff viết:
“Không biết vì san hô hay vì lẽ khác mà các ghềnh đá
ấy lớn dần, nhưng rõ ràng nhận thấy các đảo nhỏ ấy càng năm càng cao,
và một vài cái bây giờ đã có người ở thường xuyên, thế mà chỉ mấy năm
trước sóng đã vỗ dập qua. Những đảo ấy đáng lẽ không giá trị nếu nghề
chài ở đó không phồn thịnh và không biết bù hết mọi nguy nan cho kẻ
phiêu lưu. Từ lâu đời, những thuyền phần lớn từ đảo Hải Nam tới, đã
hằng năm đến thăm các bãi nổi này và tiến hành cuộc viễn du xa xa tới
tận bờ đảo Borneo. Tuy rằng hằng năm hơn phần mười bị đắm, nhưng cá
đánh được rất nhiều, đến nỗi không những bù hết được mọi thiệt thòi, mà
còn để lại món lợi rất to. Chính phủ An Nam thấy những lợi có thể mang
lại nếu một ngạch thuế được đặt ra, bèn lập ra những trưng thuyền và
một trại quân nhỏ ở chỗ này để thu thuế mà mọi người ngoài tới đây đều
phải trả, và để bảo trợ người đánh cá bản quốc” ([5]).
Trong Địa lý tóm tắt của Ý (Compendio di Geografia)
do Adriano Balbi soạn năm 1850, trang 641 mô tả về địa lý Vương quốc An
Nam có ghi: Cũng thuộc vương quốc này còn có quần đảo Paracel, nhóm đảo
Pirati và nhóm đảo Poulo Condor (tức Hoàng Sa, nhóm đảo Hải Tặc và Côn
Đảo). Cũng trong tác phẩm này tr.644-648 về địa lý Trung Hoa không viết
gì về Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngay cả các sách TQ cũng công nhận việc quy thuộc
các đảo này vào An Nam. Chúng ta có thể đọc được điều đó trong phần tựa
cuốn Hải Lục năm 1842 trong đó Vương Bính Nam đã so sánh các điều mắt
thấy tai nghe do Tạ Thanh Cao, một thủy thủ TQ từng đi nhiều nước nhiều
vùng về kể lại:
“Vạn lý Trường Sa là đất nổi giữa biển, dài vài ngàn dặm, là phên giậu của An Nam”.
Hải ngoại ký sự của Thích Đại Sán (người TQ) năm
1696 ([6]) quyển III đoạn thuật lại chuyến đi về Quảng Đông bắt đầu đi
từ Quảng Nam viết: “…bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm
chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là "Vạn lý Trường Sa", mù tít chẳng
thấy cỏ cây nhà cửa; nếu thuyền bị trái gió trái nước tấp vào dầu không
tan nát cũng không gạo, không nước, trở thành ma đói mà thôi. Quãng ấy
cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm ([7]). Các quốc vương
thời trước, hằng năm sai thuyền đi đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm
vàng bạc khí cụ của các tàu thuyền hư hỏng dạt vào". Đoạn văn mô tả này
đã xác nhận việc hành xử chủ quyền của thời Chúa Nguyễn qua hoạt động
thu lượm hóa vật của Đội Hoàng Sa.
Các mô tả về Paracel từ các nguồn nước ngoài chứng
tỏ Hoàng Sa không phải là các đảo ven bờ biển Trung VN. Trong khi có
khá nhiều nguồn tài liệu trung gian chứng minh sự chiếm hữu Paracels
của các Chúa và Vua Nguyễn, không có một nguồn tư liệu nước ngoài nào
chỉ rõ sự chiếm hữu các đảo này của TQ.
Chú thích:[1] Trích dẫn theo P.B Lafont, Sđd, tr.248.[2] J.L Taberd, Ghi chép về địa lý Nam Kỳ trong the Journal of Bengal, Calcutta, serie VI, September 1837, tr.737 – 745.[3] Tập san của người bạn cũ của Huế, số 2,1923, tr.257.[4] M.A Dubois de Jancigny, Thế giới, lịch sử và
mô tả các dân tộc Nhật, Đông Dương, Xeylan, Paris éd, Firmin Didot
Freres, 1850, tr. 555.[5] Journal of the Geographical Society of
London (Tạp chí Hội Địa lý London), quyển 19 (1849), London, John
Murray, 1849, tr. 93-94.[6] Hải ngoại ký sự là ghi chép chuyến đi của
tác giả Đại Sán Hán Ông, tên là Thạch Liêm từ chùa Trường Thọ tỉnh
Quảng Đông đến vùng Thuận Quảng nước Đại Việt vào năm Ất Hợi triều Vua
Khang Hy (1695) và trở về Trung Quốc vào năm sau (1696). Sách nguyên
bản chữ Hán gồm 6 quyển đã được Viện Đại học Huế dịch trọn bộ ra Quốc
ngữ năm 1963. Sau này người TQ đã dựng nên một chiến dịch nói xấu tác
giả, chứng minh ông là người không bình thường, là kẻ điên để giảm bớt
tính chân thực của tác phẩm. Nguyễn Quang Ngọc, Sđd, tr. 43.[7] Phạm Hoàng Quân cho rằng ở đây có lỗi dịch
Hán-Nôm, thất canh lộ không phải là 7 ngày đêm, canh ở đây là đơn vị
chiều dài. Tuy nhiên ông cũng công nhận một canh khoảng trăm dặm. Như
vậy về khoảng cách Hải ngoại ký sự mô tả khá chính xác khoảng cách từ
bờ đến quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Cách dịch đúng được đề xuất là:
“Quãng ấy cách Đại Việt bảy canh đường, chừng bảy trăm dặm”.SOURCE: BÁO THANH NIÊN ĐIỆN TỬ